Vừa qua tại Phú Thọ, Trung tâm Khuyến nông Quốc Gia đã tổ chứcchuyên đề “Tăng cường ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất Chè sạch” nhằm giới thiệu các mô hình công nghệ mới.

Hiện nay, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 5 thế giới về diện tích chè, khối lượng xuất khẩu chè, tuy nhiên giá bán lại xếp 10/11 nước, nguyên nhân chính là công nghệ chế biến, thu hái chè vẫn còn lạc hậu.


Có tới 85% cơ sở chế biến chè chưa đạt

Tính đến năm 2011, theo thống kê của Cục Trồng trọt, diện tích chè cả nước hiện đạt trên 162.000 ha với năng suất bình quân 77,4 tạ chè búp tươi/ha, sản lượng gần đạt 889.000 tấn, tăng 6,5% so với năm 2010. Nhìn chung, từ khi chọn tạo, nhập nội được nhiều dòng chè năng suất, chất lượng cao đã đưa ngành chè phát triển hơn cả về năng suất lẫn chất lượng, ngành chè đạt được nhiều thành tựu về giống .

Về cơ cấu chè, hiện giống chè mới từ cành chiếm 52%, diện tích chè chưa cải tạo còn 48%. Tuy nhiên, tại các vùng sản xuất chè tập trung như Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Lâm Đồng, Yên Bái đã có hơn 170 ha vườn chè giống mới đầu dòng được thẩm định, công nhận và đủ khả năng cung cấp trên 300 triệu hom giống cho trồng mới và thay thế diện tích chè kém chất lượng trong những năm tới.

Tuy nhiên, bên cạnh sự tiến bộ về chọn tạo giống của ngành chè thì khâu thu hoạch, chế biến chè của nước ta còn khá ảm đạm. Phó Cục trưởng Cục Chế biến - ông Đoàn Xuân Hòa cho biết, vừa qua kiểm tra 31 doanh nghiệp chế biến chè ở các tỉnh phía Bắc thì chỉ 16% cơ sở áp dụng tiêu chuẩn ISO và HACCP, 42% có phòng kiểm định KCS và 35% có vùng nguyên liệu.

Thực hiện Cơ giới hóa trong thu hoạch chè tại Phú Thọ

Trong ngành chế biến chè của Việt Nam vẫn còn những tồn tại, đó là là có quá nhiều doanh nghiệp không đáp ứng đủ điều kiện, quy chuẩn về nhà xưởng chế biến chè cũng như vùng nguyên liệu. Thực tế hiện có trên 450 cơ sở chế biến chè với tổng công suất theo thiết kế trên 4.600 tấn/ngày, năng lực chế biến gần 1,5 triệu tấn búp tươi/năm, song hàng năm chỉ chế biến được 600.000 tấn búp tươi, chỉ bằng 40% công suất.

Đáng báo động hơn, Cục Chế biến, thương mại NLTS&NM đã tiến hành tổng hợp kiểm tra đánh giá và phân loại các cơ sở chế biến chè tại 10 tỉnh có diện tích chè lớn nhất cho thấy, cơ sở có nhà xưởng, thiết bị công nghệ tiên tiến, đảm bảo vệ sinh an toan thực phẩm - đạt loại A  chỉ chiếm 14,2%, đạt loại B - thuộc diện “vé vớt”, chiếu cố vì có nhiều yếu tố phải khắc phục là52% và loại C - các cơ sở không đủ điều kiện sản xuất xấp xỉ 31%.

Ông Hòa cảnh báo: “Thực trạng trên sẽ dẫn đến việc tranh mua nguyên liệu giữa các nhà máy, cơ ở sản xuất chè bằng mọi giá, bất chấp tiêu chuẩn. Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng chè, hiệu quả chế biến thấp và tiêu tốn lãng phí nhiên liệu động lực, đầu tư máy tách cẫng sơ chế. Đây là một trong những nguyên nhân khiến giá xuất khẩu chè bình quân của nước ta chỉ xếp thứ 10 thế giới”.

1 MÁY HÁI CHÈ = 15 NHÂN CÔNG

Trước thực trạng khủng hoảng nhân lực và giá bán từ nhiều năm qua của ngành chè, GĐ Trung tâm Khuyến nông QG - TS. Phan Huy Thông cho rằng, cần phải có cuộc cách mạng cơ giới hóa đồng bộ trong chế biến, thu hoạch, tiêu thụ chè mới mong bắt kịp công nghệ, xu thế các nước có ngành sản xuất chè phát triển trong khu vực; tiến tới nâng giá chè Việt Nam sát hơn với giá chè thế giới, để từ đó tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống người trồng chè.

Máy xới cỏ chè


Hiện có rất nhiều mô hình cơ giới hóa, có thể đảm nhận tất cả mọi công đoạn trong sản xuất chè, đó là:

+ Đầu tiên là mô hình cơ giới hóa khâu xới cỏ chè. Hiện nay có rất nhiều loại máy móc phục vụ nông nghiệp, phục vụ công tác xới cỏ chè, giúp giảm 75% thời gian lao động. Xới cỏ chè là công việc khá nặng nhọc và tốn nhiều công lao động, trong năm bà con phải dùng tay nhổ cỏ nhiều lần trong năm để cỏ dại không tranh dinh dưỡng của cây chè và để đất tươi xốp. Bà con có thể liên hệ với Trung tâm Khuyến nông tại địa phương để có địa chỉ mua máy, được hưởng các chính sách ưu đãi..

+ Thứ 2 là mô hình cơ giới hóa công nghệ tưới chè tiết kiệm phun mưa di động. Mô hình có ưu điểm là chủ động được nước tưới theo đúng thời vụ, nâng cao hiệu quả phân bón và tiết kiệm nhân công gánh nước tưới chè, phun thuốc Bảo vệ thực vật.

+ Mô hình cơ giới hóa trong sản xuất Chè là mô hình thu hoạch chè bằng máy. Công đoạn hái chè là khâu tốn nhiều nhân công và chi phí nhất. Theo tính toán của các hộ làm chè, công lao động hái chè chiếm 40 – 45% tổng chi phí cho nương chè và chiếm 25 – 30% giá bán chè búp tươi. Sử dụng thu hoạch chè bằng máy được coi như là một cuộc cách mạng thay thế sức lao động trong sản xuất chè.

Tổng kết, theo đánh giá của các hộ tham gia mô hình hái chè bằng máy: tuy chất lượng chè búp tươi kém hơn so với hái thủ công, song hái bằng máy ưu điểm hơn hẳn về năng suất và sản lượng, rút ngắn được thời gian giữa các lứa chè. Trung bình, một ngày thu hoạch chè bằng máy có thể đạt 500 – 600 kg chè tươi, tương đương 15 nhân công hái chè thủ công.

Thực tế cho thấy, hái chè bằng máy giúp năng suất búp chè tăng trên 10%, không những thế nguyên liệu đó còn có thể chế biến được cả chè xanh. Ngoài ra, hái chè bằng máy còn giảm việc dùng thuốc bảo vệ thực vật do thời gian giữa hai lứa chè kéo dài nên không có nhiều thức ăn cho sâu cộng quá trình hái chè máy hút đi đáng kể lượng sâu và trứng.


0 nhận xét:

Đăng nhận xét