Kể từ khi Việt Nam hội nhập WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới), thì chè lẫn dâu đều cùng chung một “số phận”! Giữa thương trường, “nghiệp” chè cũng lắm lúc nghiệt ngã chẳng thua kém “bể dâu”.

 
Một vùng nguyên liệu sản xuất chè OOlong ở Bảo Lộc



Thực trạng ngành chè chưa phát huy hết tiềm năng

Khi ngành chè bắt đầu hội nhập WTO cách đây 7 năm, ông Đoàn Trọng Phương - Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Chè Lâm Đồng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam đã trao đổi một điều rất chí lý: “Cả ngành chè lúc này cần liên kết lại và cùng nhau đóng “bè” để ra biển lớn!”. Và mới đây, trong một cuộc Hội thảo bàn giải pháp phát triển ngành chè Lâm Đồng, ông Phương cũng đưa ra một hình ảnh rất thực tế và ấn tượng đối với ngành chè hiện nay là: “Cá nhỏ rỉa chết cá lớn!”. 

Tỉnh Lâm Đồng hiện có 62 doanh nghiệp (DN) sản xuất, chế biến chè theo dạng công nghiệp (trong đó, có 21 DN Đài Loan, 1 DN Nhật Bản sản xuất, chế biến khoảng 40.000 tấn chè búp tươi thành 8.000 tấn chè thành phẩm/năm); và có tới 200 cơ sở sản xuất, chế biến chè nhỏ lẻ, thủ công với khối lượng sản xuất chế biến chè hàng năm không nhỏ. Trong “làng” chè Lâm Đồng, trước đây Công ty Chè là một DN Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Từ giữa năm 2005 trở về trước, Công ty Chè Lâm Đồng quản lý 12 DN trực thuộc với 1.700 ha chè, năng lực sản xuất và tiêu thụ 5 - 6 ngàn tấn chè (thành phẩm)/năm. Sau khi thực hiện chủ trương “cổ phần hóa”, đơn vị trở thành công ty cổ phần, chỉ còn lại 6 DN: Cầu Đất (Đà Lạt), 2/9 (Di Linh), 1/5, Rồng Vàng, Hà Giang (Bảo Lộc) và Minh Rồng (Bảo Lâm). Lúc đó, vốn cổ phần Nhà nước chỉ chiếm 45%. Trước đây, Nhà máy Chè 19/5 (Bảo Lộc) có năng lực sản xuất chỉ được 800 tấn chè đen/năm. Sau khi cổ phần hóa, Nhà máy đã đầu tư 15 tỷ đồng lắp đặt 2 dây chuyền công nghệ mới để sản xuất chè CTC và nâng năng lực sản xuất chè OTD, đưa công suất nhà máy lên 3.000 tấn chè/ năm, nhưng trong thực tế thì chỉ sản xuất được 2/3 công suất, tức là 2.000 tấn chè/ năm . Như vậy, các đơn vị này xuất khẩu còn thiếu một lượng chè khá lớn (khoảng 4 - 5 ngàn tấn/năm) hàng năm.

Xuất phát từ nhu cầu của thị trường và bạn hàng “truyền thống” của các nước nhập khẩu chè ở Trung Đông, Mỹ, Nga và các nước châu Á, Công ty cổ phần Chè Lâm Đồng đã liên kết với các DN và các đại lý trong tỉnh để mua nguyên liệu chế biến, nhưng cũng chỉ chế biến được 2.000 tấn/ năm. Như thế, công ty còn thiếu 3.000 tấn chè thành phẩm, nên phải mua từ các DN khác để cắt sàng chè xuất khẩu. Nhờ vậy, năm 2010, công ty xuất khẩu được 5.500 tấn; nhưng từ năm 2011, 2012 lại giảm dần. Năm 2013, công ty chỉ xuất khẩu được khoảng 4.000 tấn. 

 
Một góc phân xưởng sản xuất chè

Mất cân đối giữa sản xuất nông nghiệp và công nghiệp

Ông Đoàn Trọng Phương cho biết: Nguyên nhân của tình trạng nói trên là do trong ngành chè đã có sự phát triển mất cân đối giữa sản xuất nông nghiệp và công nghiệp. Công ty cổ phần Chè Lâm Đồng cũng như nhiều DN khác đều thiếu nguyên liệu chè búp tươi. Trong khi đó, các cơ sở và các nhà máy chế biến chè nhỏ lẻ “mọc” lung tung và thiếu quy hoạch. Công suất chế biến của các nhà máy hiện gấp 3 - 4 lần nguồn nguyên liệu, dẫn đến hiện tượng tranh mua, tranh bán chè búp tươi. Các cơ sở sản xuất chế biến chè nhỏ lẻ sẽ có lợi thế hơn, vì vốn đầu tư xây dựng nhà xưởng, thiết bị gọn nhẹ và nằm ngay trong vùng nguyên liệu nên dễ thu gom chè búp tươi. Còn những nhà máy chế biến lớn thì rất khó để có thể “xoay chuyển” được tình thế. Và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng “cá nhỏ rỉa chết cá lớn”. Mặt khác, các DN kinh doanh xuất khẩu hiện phát triển quá nhiều. Họ vào tận kho các nhà máy chè để tranh mua chè. Các nhà máy lại tranh nhau hạ giá để “lôi kéo” khách hàng, khiến giá chè “đầu ra” không thể tăng, trong khi đó chi phí “đầu vào” liên tục tăng. Chính vì thế, để các nhà máy chế biến có lợi nhuận thì không còn cách nào khác là phải làm giảm chất lượng chè! 

Tuy nhiên, diện tích chè được chứng nhận VietGAP có 15 ha; chứng nhận an toàn chỉ mới có 85 ha; chứng nhận GolobalGAP có 30 ha và các nhà máy chế biến được cấp chứng nhận HACCP, ISO… thì còn rất ít. Mặt khác, trang thiết bị máy móc chế biến chè không đồng bộ hoặc đã cũ, lạc hậu; thiếu phương tiện kiểm soát kỹ dư lượng các loại hóa chất còn tồn đọng trong nguyên liệu chè búp tươi trước khi đưa vào nhà máy chế biến”. Như vậy, nó đồng nghĩa với việc chất lượng vườn chè chưa được cải thiện tốt dẫn đến chất lượng sản phẩm không thể ổn định và giá cả chè phổ biến ở mức thấp. Chỉ riêng giá chè xuất khẩu đã bán với giá thấp, chỉ bằng 60% so với giá chè các nước khác trên thế giới. Theo ông Nguyễn Văn Sơn: “Nguy cơ sản xuất chè mất an toàn vệ sinh thực phẩm vẫn còn tiềm ẩn. Điều đó sẽ làm giảm giá bán, nếu không có giải pháp khắc phục kịp thời”.

Bài viết có liên quan:


0 nhận xét:

Đăng nhận xét